Hiện nay việc khẳng định tiếng Nhật thuộc hệ thống nào vẫn nằm
trong vòng tranh cãi, cần phải được chứng minh thêm. Có nhiều giả thuyết đã được
đưa ra, nhưng chưa có giả thuyết nào đủ mạnh để có thể khẳng định điều
này[3][4].
Có giả thuyết cho rằng nó thuộc hệ ngôn ngữ Altai, đặc biệt khi
quan sát tiếng Nhật từ cuối thời Minh Trị[5]. Về nguồn gốc, trong tiếng Nhật cổ
(từ vựng Đại Hòa), có thể thấy rằng âm /r/ (âm nước) không đứng ở đầu từ, và một
loại nguyên âm điều hòa (không để hai nguyên âm cùng loại đứng gần nhau để điều
hòa cách đọc) đã được sử dụng[6]. Tuy nhiên, bản thân những ngôn ngữ cho rằng
mình thuộc hệ ngôn ngữ Altai cũng cần phải chứng minh thêm về sự tương quan
đó[7], do đó, đối với đặc trưng rất dễ thấy của tiếng Nhật cổ được đề cập ở bên
trên thì tiếng Nhật là ngôn ngữ thuộc "kiểu Altai", chứ không hoàn
toàn thuộc về hệ đó[8].
Hệ ngôn ngữ Nam Đảo cũng là một hệ âm vị và từ vựng được cho là có
sự tương đồng với tiếng Nhật[9], tuy nhiên, những minh chứng được đưa ra để khẳng
định về mặt ngôn ngữ thì không đủ, có rất nhiều ví dụ cho giả thiết trên không
thể kiểm chứng được. Cho nên nói về mối quan hệ thì có thể nói rằng nó không rõ
ràng.
Có giả thuyết nói rằng tiếng Nhật có quan hệ với hệ ngôn ngữ
Dravida, nhưng những nhà nghiên cứu nhận thấy mối quan hệ đó không nhiều. Shin
Ono có giả thuyết cho rằng các điểm từ vựng - ngữ pháp của tiếng Nhật có những
điểm chung với tiếng Tamil[10], tuy nhiên đã có nhiều chỉ trích quan điểm này
khi xem xét vấn đề theo phương pháp của ngành so sánh ngôn ngữ học[11] (xem tiếng
Tamil).
Nếu chúng ta quan tâm đến mối quan hệ đối với cá nhân từng ngôn ngữ,
thì ký hiệu, từ vựng v.v. của tiếng Nhật ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tiếng Hán từ xa
xưa thông qua chữ Hán và Hán ngữ. Nhật Bản thuộc về nhóm các nước có truyền thống
sử dụng chữ Hán (các nước đồng văn) mà trung tâm là Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ sở
từ vựng không có sự tương ứng, ngoài ra đặc trưng về văn phạm - phát âm thì
hoàn toàn khác Trung Quốc, do đó sự liên quan về hệ thống là không chính xác.
Đối với ngôn ngữ Ainu, mặc dù cấu trúc câu của ngôn ngữ Ainu tương
tự như của tiếng Nhật (kiểu SOV), nhưng văn phạm - hình thái xét theo loại hình
thì thuộc về các tổ hợp ngôn ngữ khác nhau, đồng thời cấu tạo âm vị cũng chứng
tỏ tồn tại nhiều khác biệt về hữu thanh - vô thanh cũng như việc sử dụng âm tiết
đóng. Sự liên quan tương tự về mặt từ vựng cơ bản cũng đã được chỉ ra[12] nhưng
những dẫn chứng thì không đầy đủ. Nói chung sự giống nhau về ngôn ngữ thể hiện ở
chỗ, có nhiều từ vựng Ainu rất dễ nhận ra là đều được mượn từ tiếng Nhật[13].
Hiện nay, những tài liệu chứng minh ra sự liên quan với nhau của hai ngôn ngữ một
cách hệ thống rất thiếu.
Đối với ngôn ngữ Triều Tiên, mặc dù có nhiều điểm giống nhau về cấu
trúc văn phạm, cơ sở từ vựng của hai ngôn ngữ khác nhau rất nhiều. Về khía cạnh
âm vị, mặc dù có những điểm giống nhau về nguồn gốc cũng như âm nước không đứng
ở đầu từ, hay đều dùng một kiểu hòa hợp nguyên âm, v.v., nhưng cũng như hệ ngôn
ngữ Altai được đề cập ở trên, sự tương tự không đóng vai trò toàn bộ, âm đóng
và phụ âm kép (trong tiếng Triều Tiên thời kỳ giữa) tồn tại sự khác nhau lớn so
với tiếng Nhật. Trong Ngôn ngữ Cao Ly đã biến mất của bán đảo Triều Tiên, cách
đếm số cũng như từ vựng được cho là tương tự với tiếng Nhật[14], nhưng sự thật
là hiện nay tiếng Cao Ly là biến mất gần như hoàn toàn, do đó khó có thể trở
thành tài liệu kết luận giả thuyết trên một cách có hệ thống.
Ngoài ra, tiếng Lepcha - tiếng Hebrew cũng đã được đề cập đến,
nhưng về mặt so sánh ngôn ngữ học nó được xếp vào loại các giả thuyết sai.
Ngôn ngữ giống với tiếng Nhật và hệ thống của nó được thấy rõ ràng
nhất là ngôn ngữ của nhóm đảo Ryūkyū (thuộc tiểu vương quốc Ryūkyū trước đây).
Ngôn ngữ Ryūkyū và tiếng Nhật gần gũi một cách dị thường, do đó có khả năng xếp
nó thành một phần của tiếng Nhật (phương ngữ Ryūkyū). Trong trường hợp là ngôn
ngữ đặc biệt, tiếng Nhật và tiếng Ryūkyū được xếp chung vào hệ ngôn ngữ Nhật Bản.
Các đặc trưng của ngôn ngữ còn được thể hiện, đầu tiên là ở sự phức
tạp của hệ thống chữ viết rất dễ nhận thấy. Kanji (漢字, Hán tự) (được sử dụng với cả cách đọc âm Hán (音読み, onyomi) lẫn âm Nhật (訓読み,
"kunyomi")), hiragana (平仮名), katakana (片仮名) và bảng rōmaji v.v., nhiều người cho rằng một ngôn ngữ thường xuyên
phối hợp hơn 3 kiểu chữ khác nhau như vậy là có một không hai (xem thêm Hệ thống
chữ viết). Ngoài ra, đại từ nhân xưng rất đa dạng như dùng watakushi, watashi,
boku, ore đều để chỉ ngôi thứ nhất và anata, anta, kimi, omae để chỉ ngôi thứ
hai, v.v. cũng là một đặc điểm của tiếng Nhật (Xem thêm Đại từ nhân xưng).
0 件のコメント:
Write nhận xét