
Tiếng Nhật Bản, hay tiếng
Nhật (日本語 (にほんご) Nihongo?, Nhật Bản ngữ) là một ngôn ngữ được hơn 130 triệu người
sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới.
Nó là một ngôn ngữ chắp
dính (khác biệt với tiếng Việt vốn thuộc vào loại ngôn ngữ đơn lập phân tích
cao) và nổi bật với một hệ thống các nghi thức nghiêm ngặt và rành mạch, đặc biệt
là hệ thống kính ngữ phức tạp thể hiện bản chất thứ bậc của xã hội Nhật Bản, với
những dạng biến đổi động từ và sự kết hợp một số từ vựng để chỉ mối quan hệ giữa
người nói, người nghe và người được nói đến trong cuộc hội thoại. Kho ngữ âm của
tiếng Nhật khá nhỏ, với một hệ thống ngữ điệu rõ rệt theo từ. Tiếng Nhật cổ nhất
được biết đến chủ yếu dựa vào trạng thái của nó vào thế kỷ thứ 8, khi ba tác phẩm
chủ yếu của tiếng Nhật cổ được dịch (hai bộ sử Kojiki Cổ Sự Ký, Nihon Shoki Nhật
Bản Thư Kỷ và thi tập Manyoshu (Vạn Diệp Tập); nhưng một số lượng tài liệu ít
hơn, chủ yếu là chữ khắc, còn cổ hơn. Những chứng thực về tiếng Nhật cổ nhất có
thể tìm thấy trong một số tư liệu thành văn của Trung Quốc từ năm 252.
Tiếng Nhật được viết trong
sự phối hợp ba kiểu chữ: Kanji (漢字 - "Hán tự"
- kiểu Nhật Bản, có một số khác biệt so với Trung Quốc) và hai kiểu chữ đơn âm
mềm Hiragana (Bình giả danh) và đơn âm cứng Katakana (Phiến giả danh). Kanji
dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ
Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố
ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ v.v. Katakana dùng để
phiên âm từ vựng nước ngoài, trừ tiếng Trung và từ vựng của một số nước dùng chữ
Hán khác. Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc
biệt là ở tên và biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hóa, khi
nhập tiếng Nhật vào máy tính và được dạy ở cấp tiểu học nhưng chỉ có tính thí
điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được dùng để ghi số, nhưng cách viết số
theo ngữ hệ Hán-Nhật cũng rất phổ biến.
Từ vựng Nhật chịu ảnh hưởng
lớn bởi những từ mượn từ các ngôn ngữ khác. Một số lượng khổng lồ các từ vựng
mượn từ tiếng Hán, hoặc được tạo ra theo kiểu của tiếng Hán, qua giai đoạn ít nhất
1.500 năm. Từ cuối thế kỷ 19, tiếng Nhật đã mượn một lượng từ vựng đáng kể từ hệ
ngôn ngữ Ấn-Âu, chủ yếu là tiếng Anh. Do mối quan hệ thương mại đặc biệt giữa
Nhật Bản và Hà Lan vào thế kỷ thứ 17, tiếng Hà Lan cũng có ảnh hưởng, với những
từ như bīru (từ bier; "bia") và kōhī (từ koffie; "cà phê").
0 件のコメント:
Write nhận xét