Hệ thống từ vựng
Bài chi tiết: Từ vựng tiếng Nhật

Đại từ nhân xưng
Sự đa dạng của từ vựng mô tả con người trong tiếng Nhật thì rất
đáng chú ý. Ví dụ như, ở mục watashi (わたし, "tôi") của
Đại từ điển đồng âm[29] liệt kê 「わたし(watashi)・わたくし(watakushi)・あたし(atashi)・あたくし(atakushi)・あたい(atai)・わし(washi)・わい(wai)・わて(wate)・我が輩(wagahai)・僕(boku)・おれ(ore)・おれ様(oresama)・おいら(oira)・わっし(wasshi)・こちとら(kochitora)・自分(jibun)・てまえ(temae)・小生(shousei)・それがし(soregashi)・拙者(sessha)・おら(ora)」, mục từ anata (あなた, "bạn")
thì có 「あなた(anata)・あんた(anta)・きみ(kimi)・おまえ(omae)・おめえ(omee)・おまえさん(omaesan)・てめえ(temee)・貴様(kisama)・おのれ(onore)・われ(ware)・お宅(otaku)・なんじ(anji)・おぬし(onushi)・その方(sonokata)・貴君(kikun)・貴兄(kikei)・貴下(kika)・足下(sokka)・貴公(kikou)・貴女(kijo)・貴殿(kiden)・貴方(kihou)」.
Sự thật ở trên là, nếu như so sánh với việc hầu như chỉ có
"I" và "you" để chỉ đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi
thứ hai trong tiếng Anh hiện đại, hay đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất của tiếng
Pháp là "je", đại từ nhân xưng ngôi thứ hai là "tu"
"vous", có thể thấy được sự khác biệt. Mặc dù vậy, thậm chí trong tiếng
Nhật, nếu xét đến đại từ nhân xưng cần thiết, thì ngôi thứ nhất chỉ cần wa(re)
hay a(re), và ngôi thứ hai là na(re). Những từ được dùng với vai trò đại từ
nhân xưng ngôi thứ nhất và thứ hai ngày nay phần lớn là sự thay đổi từ danh từ
chung[30].
Hơn nữa, từ quan điểm thể hiện sự kính trọng, đối với cấp trên thì
việc sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ hai có xu hướng lược bỏ. Ví dụ, thay vì
hỏi anata wa nanji ni dekakemasuka ("mấy giờ ngài đi"), thông thường
sẽ được nói nanji ni irasshaimasuka.
Phân loại từ vựng
Nếu phân chia theo nguồn gốc sinh ra từ vựng tiếng Nhật, ta có được
nhiều nhóm bao gồm wago (和語, "hòa ngữ"),
kango (漢語, "hán ngữ"), gairaigo (外来語, "ngoại lai ngữ"), cũng như một loại từ vựng pha trộn
các kiểu trên với nhau gọi là konshugo (混種語, "hỗn chủng ngữ").
Cách phân loại của từ theo nguồn gốc như vậy gọi là goshu (語種, "ngữ chủng"). Hòa ngữ là bộ từ vựng Yamato (大和言葉, "Đại Hòa ngôn diệp - từ vựng Đại Hòa") có từ xưa của Nhật
Bản, Hán ngữ (từ Hán) là những từ vựng sử dụng âm Hán tự du nhập từ Trung Quốc,
Ngoại lai ngữ (từ nước ngoài) là từ vựng được du nhập từ các ngôn ngữ khác
ngoài Trung Quốc. Mặc dù vậy, từ ume (ウメ, "mận"),
ví dụ, có khả năng là từ mượn từ tiếng Trung Quốc nguyên thủy nên không phải
Hòa ngữ, cho thấy biên giới của Ngữ chủng đến nay vẫn chưa rõ ràng.
Hòa ngữ chiếm một phần hạt nhân của từ vựng tiếng Nhật. Những từ vựng
cơ sở như kore (これ, "cái này"), sore (それ, "cái kia", kyō (きょう, "hôm
nay"), asu (あす, "ngày mai"), watashi (わたし, "tôi"), anata (あなた, "bạn"
ngôi thứ hai), iku (行く, "đi"),
kuru (来る, "đến"), yoi (良い, "tốt"),
warui (悪い, "xấu") hầu hết là Hòa ngữ. Ngoài ra, các trợ từ như te「て」, ni「に」, wo 「を」, wa 「は」 và đại bộ phận trợ động từ và các từ phụ thuộc cần thiết để tạo
thành câu đều là Hòa ngữ.
Mặt khác, Hán ngữ và Ngoại lai ngữ được dùng nhiều để biểu thị khái
niệm trừu tượng và khái niệm mới sinh ra từ sự phát triển của xã hội. Cũng có
những tên sự vật nguyên thủy là Hòa ngữ thì đã chuyển sang Hán ngữ và Ngoại lai
ngữ. Meshi (めし, "bữa ăn" hay "cơm") chuyển thành gohan (御飯) hay raisu (ライス); yadoya (やどや, "nhà nghỉ") thành ryokan (旅館) hay hoteru (ホテル) là những ví dụ
tiêu biểu cho sự thay đổi này[31]. Đối với những từ đồng nghĩa nhưng thay đổi
Ngữ chủng như vậy, có một sự khác biệt nhỏ về ý nghĩa - sắc thái, cụ thể là Hòa
ngữ thì tạo ấn tượng đơn giản, suồng sã, Hán ngữ thường tạo ra ấn tượng chính
thức, lễ nghi, còn Ngoại lai ngữ thì mang ấn tượng hiện đại.
Một cách tổng quát, có thể nói nghĩa của Hòa ngữ thì rộng, còn
nghĩa của Hán ngữ thì hẹp. Một ví dụ, chỉ có một từ Hòa ngữ là shizumu (しづむ) hay shizumeru (しずめる) có nghĩa là
"kìm nén", tương ứng với nhiều thành phần từ ghép của hán ngữ như 「沈」「鎮」「静」. Ý nghĩa đa dạng về cách hiểu của shizumu chỉ có thể phân biệt được
khi viết xuống sử dụng Hán tự, và có thể là một trong các chữ 「沈む」「鎮む」「静む」. Ý nghĩa biểu thị của Hán ngữ được ghép lại từ hơn hai chữ có tính
phân tích, tức là nghĩa của nó có thể suy đoán từ nghĩa của từng từ. Ví dụ, chữ
jaku (弱, "nhược") khi ghép với các chữ sei (脆, "thúy", "dễ vỡ"), hin (貧, "bần", "nghèo"), nan (軟, "nhuyễn", "mềm, ủ rũ"), haku (薄, "bạc", "ốm yếu"), tạo thành từ vựng có tính
phân tích - giải thích như zeijaku (脆弱, "dễ vỡ"),
hinjaku (貧弱, "nghèo", "xơ xác"), nanjaku (軟弱, "ốm yếu"), hakujaku (薄弱, "yếu đuối")[32].
Hán ngữ, với những từ như gakumon (学問, "học vấn"), sekai (世界, "thế giới), hakasei (博士, "bác
sĩ"), là những từ vựng được du nhập từ Trung Quốc trước đây, chiếm đại bộ
phận từ vựng tiếng Nhật, nhưng từ xa xưa đã có nhiều từ Hán ngữ do người Nhật tạo
ra (waseikango, 和製漢語, "Hòa chế Hán ngữ"). Ngay cả ngôn ngữ hiện đại như
kokuritsu (国立, "kiều bào"), kaisatsu (改札, "soát vé"), chakuseki (着席, "chỗ ngồi"), kyoshiki (挙式, "tổ chức buổi lễ") hay sokutō (即答, "trả lời ngay") cũng dùng nhiều Hòa chế Hán ngữ[33].
Ngoại lai ngữ ngoài những từ đang được sử dụng với ý nghĩa gốc của
nó, thì trong tiếng Nhật, việc có sự thay đổi ý nghĩa gốc của từ là không ít.
"Claim" trong tiếng Anh có nghĩa là "đòi hỏi quyền lợi tự
nhiên", còn trong tiếng Nhật kurēmu 「クレーム」 mang nghĩa là
"than phiền". Tiếng Anh, "lunch" có nghĩa là "bữa ăn
trưa", thì ranchi 「ランチ」 trong nghĩa tiếng
Nhật khi nhắc đến ăn uống thì có nghĩa là một kiểu ăn ("tiệc trưa")[34].
Sự kết hợp các Ngoại lai ngữ như aisu kyandē 「アイスキャンデー」 ("ice" + "candy", "kem cây") hay
saido mirā 「サイドミラー」 ("side" + "mirror", "kính chắn
gió"), tēburu supīchi 「テーブルスピーチ」 ("table"
+ "speech", "cuộc chuyện trò sau bữa ăn tối") được sáng tạo
ra từ nghĩa gốc tiếng Nhật. Ngoài ra, cũng có sự sáng tạo những từ mà dạng từ
liên quan không hề là từ nước ngoài như naitā 「ナイター」 ("trò chơi dưới ánh đèn", chuyển tự nighter), panerā 「パネラー」 ("người trả lời trong các chương trình trò chơi dạng hỏi đáp
trên ti vi", chuyển tự paneler), purezentētā 「プレゼンテーター」 ("người diễn thuyết", chuyển tự presentator). Thuật ngữ
chung để gọi dạng từ này là waseiyōgo (和製洋語, "tiếng Nhật tạo
ra từ thành phần tiếng nước ngoài"), nếu từ tiếng Anh thì đặc biệt gọi là
waseieigo (和製英語, "tiếng Nhật tạo ra từ thành phần tiếng Anh").
0 件のコメント:
Write nhận xét