Biến tố và chia động từ

Có thể tạo ra các từ nhắc đến nhiều người và nhiều con bằng cách thêm một hậu tố
tập hợp để chỉ một nhóm các cá nhân (một hậu tố danh từ dùng để chỉ một nhóm),
như -tachi, nhưng đây không phải là một số nhiều thực sự: nghĩa của nó thì gần
giống "và người/vật đi cùng". Một nhóm được miêu tả là
Tanaka-san-tachi có thể bao gồm những người không có tên là Tanaka. Vài danh từ
tiếng Nhật trên thực tế là số nhiều, như hitobito "những người" và
wareware "chúng tôi", còn từ tomodachi "bạn bè" thì được
xem là số ít dù có hình thức số nhiều.
Động từ được chia để thể hiện thì, có hai thì: quá khứ và hiện tại,
hay phi-quá khứ được dùng để chỉ cả hiện tại lẫn tương lai. Đối với các động từ
miêu tả một quá trình đang xảy ra, hình thức -te iru chỉ thì tiếp diễn. Đối với
các động từ khác miêu tả sự thay đổi trạng thái, hình thức -te iru chỉ một thì
hoàn thành. Ví dụ kite iru có nghĩa "Anh ta đã đến (và vẫn đang ở
đây)", nhưng tabete iru có nghĩa "Anh ta đang ăn".
Câu hỏi (cả với một đại từ nghi vấn và câu hỏi có/không) có cấu
trúc như các câu khẳng định nhưng ngữ điệu lên giọng ở cuối câu. Trong cách nói
chính quy, trợ từ nghi vấn -ka được thêm vào. Ví dụ, Ii desu "tốt" trở
thành Ii desu-ka "có tốt không?". Trong lối diễn đạt thân mật, đôi khi
trợ từ -no được thêm vào thay vì "ka" để biểu thị một sự quan tâm cá
nhân của người nói: Dōshite konai-no? "Sao (mày) lại không đến?". Một
vài câu hỏi được tạo ra chỉ đơn giản bằng cách đề cập chủ đề với một ngữ điệu
nghi vấn để tạo ra sự chú ý của người nghe: Kore-wa? "(Thế còn) điều
này?"; Namae-wa? "Tên (của bạn là gì)?".
Thể phủ định được tạo bằng cách biến cách động từ. Ví dụ, Pan-o
taberu "Tôi sẽ ăn bánh mỳ" hoặc "Tôi ăn bánh mỳ" trở thành
Pan-o tabenai "Tôi sẽ không ăn bánh mỳ" hoặc "Tôi không ăn bánh
mỳ".
Hình thức động từ dạng -te được sử dụng cho nhiều mục đích khác
nhau: hoặc là tiếp diễn hoặc là hoàn thành (xem ở trên); các động từ kết hợp
theo thứ tự thời gian (Asagohan-o tabete sugu dekakeru "Tôi sẽ ăn bữa sáng
và ra đi ngay"), các mệnh lệnh đơn giản, bày tỏ điều kiện và sự cho phép
(Dekakete-mo ii? "Tôi ra ngoài được không?"), v.v.
Từ da (suồng sã), desu (lịch sự) là hệ động từ. Nó gần tương tự với
từ là, thì, ở trong tiếng Anh nhưng thường có vai trò khác nữa, đó là một từ
đánh dấu thì khi động từ được chia ở thì quá khứ datta (suồng sã), deshita (lịch
sự). Điều này được sử dụng bởi vì chỉ có hình dung từ và động từ là có thể mang
thì trong tiếng Nhật. Hai động từ thông dụng khác được sử dụng để chỉ tình trạng
hay thuộc tính, trong một vài ngữ cảnh: aru (phủ định là nai) đối với những vật
vô tri giác và iru (phủ định là inai) cho những đồ vật có tri giác. Ví dụ, Neko
ga iru "Có một con mèo", Ii kangae-ga nai "[Tôi] không có một ý
tưởng hay".
Động từ "làm" (suru, dạng lịch sự shimasu) thường được sử
dụng để tạo ra danh động từ (ryōri suru "nấu ăn", benkyō suru "học
hành", vv.) và tỏ ra hữu ích trong việc tạo ra các từ lóng hiện đại. Tiếng
Nhật cũng có một số lượng lớn các động từ phức để diễn đạt các khái niệm mà tiếng
Anh dùng động từ và giới từ để diễn đạt (ví dụ tobidasu "bay đi, chạy trốn,"
từ tobu "bay, nhảy" + dasu "đuổi ra, thoát ra").
Có ba kiểu tính từ (xem thêm tính từ tiếng Nhật):
形容詞 keiyōshi (hình dung từ), hay các tính từ đuôi i (kết thúc bằng i)
(như atsui, "nóng") có thể biến đổi sang thì quá khứ (atsukatta -
"nó đã nóng"), hay phủ định (atsuku nai - "[nó] không
nóng"). Lưu ý rằng nai cũng là một tính từ đuôi i, có thể trở thành quá khứ
(atsuku nakatta - [nó] đã không nóng).
暑い日 atsui hi "một ngày nóng".
形容動詞 keiyōdōshi (hình dung động từ), hay các tính từ đuôi na, được theo
sau bởi một dạng hệ động từ, thường là na. Ví dụ hen (lạ)
変なひと hen na hito "một người lạ".
連体詞 rentaishi (liên thể từ), cũng gọi là các tính từ thực, như ano "kia"
あの山 ano yama "núi kia".
Cả keiyōshi và keiyōdōshi có thể làm vị ngữ cho câu. Ví dụ,
ご飯が熱い。 Gohan-ga atsui. "Cơm nóng."
彼は変だ。Kare-wa hen da. "Ông ta lạ."
Cả hai biến cách, dù chúng không chỉ ra tất cả các cách chia, đều
có thể tìm thấy trong các động từ thực. Rentaishi trong tiếng Nhật hiện đại rất
ít và không giống như những từ khác, chúng bị giới hạn trong các danh từ bổ
nghĩa trực tiếp. Chúng không bao giờ làm vị ngữ cho câu. Các đơn cử bao gồm
ookina "lớn", kono "này", iwayuru "cái gọi là" và
taishita "làm kinh ngạc".
Cả keiyōdōshi và keiyōshi đều có thể trở thành các phó từ, bằng
cách cho ni theo sau trong trường hợp keiyōdōshi:
変になる hen ni naru "trở nên lạ",
và bằng cách đổi i sang ku trong trường hợp keiyōshi:
熱くなる atsuku naru "trở nên nóng".
Chức năng ngữ pháp của các danh từ được chỉ ra bời các hậu vị từ,
còn được gọi là trợ từ. Các ví dụ là:
が ga cho chủ cách. Không nhất thiết là một chủ ngữ.
Kare ga yatta. "Anh ta đã làm điều đó."
に ni cho tặng cách.
田中さんに聞いて下さい。 Tanaka-san ni kiite kudasai "Làm ơn hỏi Ông Tanaka."
'の no đối với sở hữu cách, hay các cụm chuyển hóa danh từ.
私のカメラ。 watashi no kamera "camera của tôi"
スキーに行くのが好きです。 Sukī-ni iku no ga suki desu "(tôi) thích đi trượt tuyết."
を o đối với đổi cách. Không nhất thiết là một bổ ngữ.
何を食べますか。 Nani o tabemasu ka? "(bạn) sẽ ăn gì?"
は wa đối với chủ đề. Nó có thể cùng tồn tại với các trợ từ đánh dấu
cách như trên ngoại trừ no, và nó quan trọng hơn ga và o.
私はタイ料理がいいです。 Watashi wa tai-ryōri ga ii desu. "Đối với tôi, đồ ăn Thái thì
ngon." Trợ từ chỉ định ga sau watashi được giấu bên dưới wa.
Lưu ý: Sự khác biệt giữa wa và ga nằm ngoài sự khác biệt trong tiếng
Anh giữa chủ đề và chủ ngữ câu. Trong khi wa chỉ chủ đề và phần còn lại của câu
mô tả hoặc hành động theo chủ đề đó, nó mang ngụ ý rằng chủ ngữ được chỉ định bởi
wa không phải duy nhất, hoặc có thể là một phần của một nhóm lớn hơn.
Ikeda-san wa yonjū-ni sai da. "Ông Ikeda 42 tuổi." Những
người khác trong nhóm có thể cũng cùng tuổi.
Sự thiếu wa thường có nghĩa chủ ngữ là tiêu điểm của câu.
Ikeda-san ga yonjū-ni sai da. "Chính ông Ikeda là người 42 tuổi."
Đây là một câu trả lời một câu hỏi ngầm hoặc hỏi thẳng ai trong nhóm này là người
42 tuổi.
0 件のコメント:
Write nhận xét