Phân biệt cách sử dụng 「うちに」「あいだに」
Cả 「うちに」「あいだに」đều dùng để diễn tả một “khoảng thời gian nhất định” nào đó.
Ví dụ mình nói:
(1) 若い(うちに/あいだに)ちゃんと勉強しなさい。
Trong khi còn trẻ hãy lo học cho đàng hoàng đi.
Khi còn trẻ hãy lo học đàng hoàng đi.
(2) 明るい(うちに/あいだに)家に帰ります。
Tôi sẽ tranh thủ về nhà trong khi trời còn sáng.
Tôi sẽ về nhà trong khi trời còn sáng.
* Tuy nhiên, 「うちに」không sử dụng được trong những trường hợp thời điểm bắt đầu và kết thúc là rõ ràng.
(4) この本はバスを待っている(うちに (X) / あいだに(OK) )買いました。
Quyển sách này tôi đã mua trong lúc đang chờ xe buýt.
(5) 2時と3時の(うちに (X) / あいだに (OK) )来て下さい。
Xin hãy đến trong khoảng từ 2 đến 3 giờ.
** Ngược lại, trong những trường hợp người nói không ý thức được khoảng thời gian đó là khi nào, hoặc thời gian đó là mơ hồ, thì không sử dụng 「あいだに」.
Ví dụ như câu sau:
(6) その(うちに (OK)/ あいだに (X) )またお訪ねいたします。
Tôi sẽ lại đến thăm anh sớm trong thời gian tới.
*** Trong những trường hợp người nói muốn thể hiện sự tranh thủ, muốn nắm bắt cơ hội để làm việc gì đó trong khoảng thời gian đó, hoặc trước khi trạng thái đó thay đổi, thì sử dụng 「うちに」.
Ví dụ như:
(7) 晴れているうちに、洗濯物を干してしまわなきゃ。
Trong lúc trời còn nắng phải tranh thủ phơi quần áo cho khô.
(8) 暗くならないうちに家に帰りなさい。
Hãy về nhà trước khi trời tối!
Trong trường hợp này, chúng ta quay lại câu ví dụ (1)
若い(うちに/あいだに)ちゃんと勉強しなさい。
Rõ ràng, câu này có thể sử dụng được cả 2 nhưng sắc thái sẽ khác nhau.
Khi sử dụng「うちに」thì người nói ý thức và muốn nhấn mạnh rằng phải tranh thủ học thật nhiều trong khi chưa già đi.
Trong khi đó, khi sử dụng 「あいだに」thì đơn giản là người nói chỉ muốn nhấn mạnh hãy làm gì đó trong khoảng thời gian đó. Ở đây là trong khoảng thời gian này, hãy học thật tốt đi.
**** Ngoài ra, trong những trường hợp diễn tả những sự việc xảy đến bất chợt, bất ngờ, hoặc diễn tả độ ngắn của thời gian, không gian (mới chỉ), hoặc người nói không nhận thức được thời gian khi nó diễn ra, thì sử dụng 「うちに」. Trong cách nói này, mặc dù cũng có thể sử dụng 「あいだに」trong một số trường hợp nhưng khi đó mang ý nghĩa người nói “thuật lại sự thật đã xảy ra khi đó”, chứ không mang sắc thái ngạc nhiên, bất ngờ (như trong ví dụ 12 bên dưới).
Ví dụ:
(9) 遠くまで行かないうちに雨が降りだした。
Cơn mưa đã đổ xuống trong lúc chúng tôi chưa đi được xa.
(10) 5分も待たないうちに、ロン君が来ました。
Trong khi chúng tôi chờ chưa đến 5 phút thì Long đã đến.
(11)5分も走らないうちに息切れしてしまった。
Mới chạy được chưa đến 5 phút là tôi đã hết hơi rồi.
(12) ピアノを練習している(うちに/あいだに)雨が止みました。
Trong khi tôi đang tập piano thì trời đã tạnh mưa.
Diễn giải: Trong câu này, khi sử dụng 「うちに」thì sẽ mang sắc thái: trong lúc tôi đang tập piano thì “không biết tự lúc nào, nhưng khi nhìn lên thì trời đã tạnh mưa”.
Trong khi đó, khi đi với 「あいだに」thì đơn giản người nói chỉ muốn thuật lại sự thật là “trời đã tạnh mưa trong lúc tôi đang tập piano”.
0 件のコメント:
Write nhận xét